Monday 14 November 2011

Những mốc thời gian

(VienDongDaily.Com - 10/02/2011)
Ở dưới bầu trời này, mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời: một thời để chào đời, một thời để lìa thế; một thời để trồng cây, một thời để nhổ cây; một thời ...

2011_0018-(2).jpg
Bà Ba Phải
(Trích trong Giai Phẩm Xuân Viễn Đông Tân Mão 2011)


Ở dưới bầu trời này,
mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời:
một thời để chào đời, một thời để lìa thế;
một thời để trồng cây, một thời để nhổ cây;
một thời để giết chết, một thời để chữa lành;
một thời để phá đổ, một thời để xây dựng;
một thời để khóc lóc, một thời để vui cười;
một thời để than van, một thời để múa nhẩy;
một thời để quăng đá, một thời để lượm đá;
một thời để ôm hôn, một thời để tránh hôn;
một thời để tìm kiếm, một thời để đánh mất;
một thời để giữ lại, một thời để vất đi;
một thời để xé rách, một thời để vá khâu;
một thời để làm thinh, một thời để lên tiếng;
một thời để yêu thương, một thời để thù ghét;
một thời để gây chiến, một thời để làm hòa
Đoạn văn trên được trích từ Cựu Ước, lời nói của vua Cô He Lét, con vua Đavít.
Theo Kinh Thánh, ông vua này là một người rất kính sợ Thiên Chúa. Theo ý ông thì mọi sự, mọi điều Thiên Chúa đã an bài, thời nào, việc nấy, con người chỉ cần vâng phục, làm đúng ý Chúa, mà không cần thay đổi, sửa chữa. Vì sự gì đã có, đã có từ ngàn xưa, sự gì không có, con người không làm sao tạo thêm ra được. Cái gì cong thì không thể nào kéo thẳng ra. Vậy thì chỉ cần kính sợ, làm những điều Thiên Chúa bảo. Tất cả mọi hoạt động nào, đi ra ngoài thời điểm đã được ấn định đều là vô ích. Tất cả mọi sự trên đời đều là phù vân, là công dã tràng xe cát! Người khôn cũng chết, mà người dại cũng chết. Càng nhiều khôn ngoan, càng nhiều phiền muộn. Càng thêm hiểu biết, càng thêm khổ đau. Vì thế, đối với con người, không có hạnh phúc nào hơn là hưởng thú vui, và sống thoải mái! Ngay cả chuyện ăn uống và hưởng những thành quả do công lao khó nhọc mình làm ra, thì đó đã là một món quà Thiên Chúa ban tặng rồi.
Những lời răn dạy cùng triết thuyết của ông vua này cũng không có gì mới mẻ. Từ ngàn xưa, trong chúng ta ai cũng đã từng đọc qua, nghe qua, nhưng ít ai áp dụng. Cái chuyện phù vân, không xa lạ gì với con người. Nhưng cái gì là phù vân, cái gì là vĩnh cửu vẫn còn là một sự tranh cãi dài dài. Đối với người này, cái này có thể là phù vân, cái kia, mới là vĩnh cửu, nhưng cũng có thể ngược lại. Cái bạn cho là phù vân tôi lại cho là bền vững. Cái tôi coi thường, bạn lại cho là quí giá. Nhưng vấn đề hưởng hạnh phúc, sống cho thoải mái thì tất cả mọi người đều công nhận, đó là mục đích đầu tiên con người tìm đến. Từ thời Cựu Ước tới nay, mọi người đều đổ xô đi tìm hạnh phúc và một cuộc sống thoải mái. Nhưng chính vì cái sự tìm kiếm này, mà con người chẳng thể nào được sống thoải mái. Trong lúc đổ xô đi tìm, ai cũng muốn mình tới đích đầu tiên, mình là người đầu tiên tìm thấy, cho nên tất cả mọi người, khi đã bước chân vào đời, là luôn ở trong trạng thái vội vàng, hấp tấp. Tất cả mọi người đều quên mất cái thời khóa biểu ông Cô He Lét đưa ra, ai cũng muốn chạy cho nhanh, cho chóng đến đích. Thời điểm đáng lẽ dành để làm việc này, con người lại dùng vào làm việc khác. Cho nên trật tự của cuộc sống bị rối beng.
Chỉ những năm đầu đời, đứa trẻ mới chịu chấp nhận sự bé nhỏ của mình, chịu nằm trong cái qui luật thời điểm, chịu làm trẻ con. Khi đã bắt đầu hiểu biết, đứa trẻ đã muốn vượt thời gian, muốn đốt giai đoạn, bằng những ước mơ: khi nào tôi lớn..... Hình như ước mơ đầu tiên của con người là được làm người lớn. Đứa trẻ con đếm từng ngày, từng tháng, từng năm để được làm người lớn. Năm nay con lên bốn... con lên năm tuổi rưỡi rồi.... Khi học tiểu học, đứa bé mong chóng lớn để được lên trung học. Khi học trung học, nó lại mong cho chóng xong trung học, để được vào đại học. Khi vào đại học, chúng lại mong sao cho chóng xong đại học để ra đời, để đi làm, để kiếm thật nhiều tiền, để lập gia đình, để có con. Khi có con, chúng mong sao cho con chóng lớn để bớt trách nhiệm. Chúng mong cho con trưởng thành, ra đời, tự lập, để chúng bớt lo. Chúng mong cho trả hết nợ nhà, chúng mong trả hết nợ xe. Chúng mong sao cho chóng tới ngày chúng được về hưu để an hưởng. Nhưng khi về hưu thì tuổi già đã đến sau lưng. Chỉ khi ốm nằm trên giường hấp hối, chúng mới giật mình, thấy rằng, suốt cả đời, chúng chỉ chạy theo những mốc thời gian trước mặt. Chúng chưa bao giờ biết đến hiện tại, và cái kinh hoàng hơn cả, là chúng bỗng nhận ra, là chúng chưa hề sống bao giờ. Mà giờ đây, chúng đang nằm chờ chết!
Những đoạn văn như thế, đầy rẫy trên sách báo, với hy vọng thức tỉnh con người, nên sống trong hiện tại, vì hiện tại là một món quà của Thượng Đế. Những nhà khôn ngoan, khuyên nhủ con người hãy sống trong hiện tại vì quá khứ đã qua, tương lai chưa đến, không ai biết sẽ ra sao, chỉ có hiện tại là có thật. Thế nhưng không ai quan tâm tới lời khuyên thành thật này, mà tất cả đều hướng về tương lai, chạy về phía trước.
Cuộc sống càng đầy đủ, tiện nghi và xa hoa bao nhiêu, thì con người càng vất vả bất nhiêu. Người ta có tất cả, nhưng người ta lại không có thì giờ để hưởng thụ. Trong khi, tại những vùng đất chưa phát triển, con người nhàn hạ, có nhiều thì giờ, thì lại không có gì để hưởng thụ. Người ta đề nghị, muốn sống một cuộc sống có giá trị tinh thần, con người nên và cần sống chậm lại. Cố gắng dành thì giờ cho chính mình, cho gia đình, cho những người thân yêu của mình. Nói một cách khác, cần phải dành thì giờ để thưởng thức đời sống. Có nhiều người thực tế hơn, khuyên nhủ bà con, nên sống như mình sắp chết! Vì, chỉ khi biết rằng mình không còn bao nhiêu thì giờ để sống, con người mới chấp nhận đi chậm lại, hoặc dừng lại. Chỉ khi nhìn thấy bóng dáng Tử Thần thập thò ngoài ngõ, con người mới nhìn ra, mới hiểu được cái gì là phù vân, cái gì là vĩnh cửu. Lúc đó, may ra, họ mới dừng chân lại, để bỏ đi những gì là phù vân, và nắm bắt cái vĩnh cửu. Nhưng đôi khi không còn kịp nữa. Thời điểm đã đi qua.
Tại Canada, một quốc gia tiến bộ, có một nếp sống vật chất không thua kém người Mỹ mấy tí, đã cảm nghiệm được cái sự làm việc quá độ, sống vội vàng quá sức, không tốt cho đời sống con người, cho nên, mỗi năm, chính phủ dành ra một ngày ngày 26 tháng 6 – gọi là ngày Không Vội Vã, No Hurry Day. Ngày đó tất cả mọi công sở đều đóng cửa, cho nhân viên nghỉ việc. Mọi người có quyền sống theo ý mình. Muốn ngủ đến giờ nào thì ngủ, muốn làm gì thì làm mà tuyệt đối Không Được Vội Vã, để tận hưởng sự sống một cách nhàn nhã theo ý muốn của mình. Bà nội trợ có quyền không nấu ăn mà đem gia đình đi ăn tiệm. Tất cả mọi người trong gia đình đều dùng cái ngày ấy để vui chơi với nhau, để nghỉ ngơi, để thoải mái, để có một ngày hội họp, chung vui, chung sống. Tuy chỉ có một ngày ngắn ngủi, nhưng tất cả mọi người đều coi đấy như một liều thuốc bổ, rất cần thiết, cho con người, có thể dứt khoát hẳn với những công việc bề bộn quanh năm, và có thì giờ hưởng thụ sự thanh nhàn. Nhưng điều đáng buồn, cần nêu lên là, rất có thể, sau cái ngày hiếm quí đó, mọi người lại phải làm việc gấp đôi, để lấy lại thời gian đã mất vào ngày Không Vội Vã, hôm trước. Cho nên, rút cục, đâu lại hoàn đấy.
Không có lẽ con người tối dạ, hay vốn dĩ kiêu ngạo, nên thiếu đức vâng lời. Tuy biết rằng, mọi việc trên đời đều có thời điểm, nhưng vì bướng bỉnh, vì khó dạy, vì chậm hiểu, nên đôi khi, vẫn làm những việc không đúng nơi, đúng lúc, vẫn cố gắng chạy theo phù vân, làm nhưng việc không đáng làm, mà những việc cần làm lại không làm??
Có một lời khuyên mà có lẽ, chúng ta nghe đã nhàm tai, là phải dành thì giờ cho những người thân. Thế nhưng lúc nào cần phải làm việc đó, thì chúng ta thấy không cần gấp gáp. Ta còn đây, người thân còn đó, lúc nào nói yêu nhau chả được, lúc nào muốn chứng tỏ tình thương cũng hợp thời, đúng lúc, nhưng không phải là bây giờ.
Một người bạn khi thấy ông xã tôi nay đau mai ốm, mà tuổi đời đã lớn, ông ngỏ ý muốn lại thăm, nhưng ông xã tôi từ chối. Thật tình ông không muốn gặp bạn bè, khi trong người không được khỏe, mặt mũi xấu xí, xác xơ, cho nên ông cứ hẹn lần. Còn ông bạn thì cứ nhất quyết muốn thăm ông một lần, có thể là lần cuối, vì ông nói, gặp bây giờ mới có ý nghĩa, còn khi đã nằm trong hòm, có tới thăm cũng vô ích. Sau nhiều lần nhắn tin qua lại, ông chồng tôi cảm thấy, đối xử như vậy là phụ lòng tốt của bạn, ông bằng lòng hẹn gặp. Nhưng hẹn qua hẹn lại, hết tuần này lại tuần khác, không thấy ông bạn tới. Sau cùng mới vỡ lẽ ra, ông bạn mới biết, ông bị một chứng ung thư cấp tính, bây giờ đến lượt ông, không muốn gặp ai!! Một lần nữa, điều này chứng tỏ cho chúng ta biết rằng, điều gì làm được hôm nay, chớ nên để đến ngày mai. Vì ngày mai có thể không bao giờ đến! Đó là những định luật thật là tầm thường, thế mà chúng ta vẫn vấp phải. Khi hai người bạn này gặp nhau, để thăm nhau, không biết đó sẽ là lần cuối của người nào?
Những sự lỗi hẹn với cuộc đời, xảy ra hàng ngày. Sau khi chúng xảy ra, chúng ta đau buồn, nuối tiếc, nhưng trước đấy, dù biết trước là ngày mai có thể sẽ không bao giờ đến, nhưng trong lòng, chúng ta luôn nghĩ, điều đó có thể xảy ra cho người khác, nhưng nó không thể xảy ra cho bản thân mình. Vì thế, con người luôn luôn lỡ hẹn, rồi sống trong ân hận.
Có vài thời điểm rất cần thiết cho cuộc sống con người mà hình như ông vua trong Cựu Ước quên không nhắc tới:
Một thời để làm việc, một thời để nghỉ ngơi
Một thời để sống cho mình, một thời để dành cho những người thân.
Như vậy, may ra con người mới thoát khỏi những nuối tiếc do chính mình gây ra.
source
VienDongDaily 
Nguồn: http://www.viendongdaily.com/nhung-moc-thoi-gian-oaKEu2F5.html

Sunday 13 November 2011

Sự nghịch lý của Phúc Âm


(VienDongDaily.Com - 06/10/2011)
TS. Trần Mỹ Duyệt

“Phúc cho những ai có tinh thần nghèo”.

Những nghịch lý xảy ra trong thời đại của chúng ta hiện nay chung quy cũng chỉ vì đồng tiền. Các nước nghèo ganh tỵ với các nước giầu. Các nước giầu lại muốn dành ngôi vị bá chủ. Từ sự giầu nghèo vật chất dẫn đến giầu nghèo tinh thần. Và hai dòng chảy này luôn luôn xung khắc với nhau không có câu trả lời thỏa đáng.
Chúa Giêsu cũng đã biết rõ điều này nên khởi đầu sứ mạng rao truyền Tin Mừng, Ngài đã dùng đề tài này để nói với quần chúng. Ngài không hứa hẹn gì và cũng không tuyên bố gì ngoại trừ những lời hứa mà thoạt nghe không làm êm ái lỗi tai người nghe, và cũng không đáp ứng được với những khao khát của phần đông nhân loại. Có chăng, Ngài đứng về phía đông những người nghèo khổ, nhỏ bé bị đời hất hủi, quên lãng. Những người vì Tin Mừng bị bách hại, đối xử bất công. Chúng ta hãy nghe Chúa nói: “Phúc cho những ai có tinh thần nghèo. Phúc cho những ai hiền lành. Phúc cho những ai đang bị khóc lóc. Phúc cho những ai đói khát sự công chính. Phúc cho những ai biết xót thương. Phúc cho những ai có tâm hồn trong sạch. Phúc cho những ai xây dựng hòa bình. Phúc cho những ai bị bắt bớ vì lẽ công chính” (Xem Mat 5:1-12).
Nghèo mà hạnh phúc thì khó nghe quá! Chỉ riêng một chữ nghèo mà thôi cũng liên quan đến bao chữ nghĩa khác: Khó khăn “nghèo khó”, khổ sở “nghèo khổ”, túng quẫn “nghèo túng”, bị đời khinh bỉ “nghèo hèn”, và làm cho con người trở nên dốt nát: “Cái khó nó bó cái khôn”. Ai ai cũng sợ nghèo, tránh nghèo, và khinh bỉ nghèo. Ai ai cũng cố ngoi lên cho khỏi kiếp nghèo. Và ai ai cũng biết rằng giàu tiền bạc đưa đến giàu quyền lực, giàu danh vọng. Khi có tiền của, có danh vọng, và quyền lực là có tất cả: “Có tiền mua tiên cũng được”. Vì thế nên sức hấp dẫn và mãnh lực đồng tiền khó ai mà chống cự nổi. Chúa Giêsu đã xếp hạng tiền của ngang hàng với chúa của những kẻ ham mê nó: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được” (Mátthêu 6:24).
Từ sự nghèo khó vật chất dẫn đến sự nghèo khó tinh thần. Sức mạnh tiền bạc đang ảnh hưởng trên toàn diện sinh hoạt của con người. Nhìn vào hệ thống tham nhũng chằng chịt của xã hội cũng đủ để kết luận rằng, những người có tinh thần nghèo, những người trong sạch, ngay thẳng hiện nay rất hiếm hoi và hầu như đang bị tuyệt chủng! Bài toán xã hội cũng là bài toán bất công mà kết cục cũng chỉ vì tiền, tiền, và tiền. Tiền có thể mua được bằng cấp, địa vị, và chức quyền. Tiền cũng có thể mua được những giây phút thỏa mãn của cơn khát dục vọng. Từ tiền đưa đến ăn chơi xa xỉ. Những tệ nạn của xã hội, tội ác xã hội xảy ra cũng vì tiền. Hòa bình bị đe đọa, chiến tranh, khủng bố khắp nơi cũng vì sự bất công xã hội, bất công giữa kẻ giầu và người nghèo. Điều này đã trở thành một nghịch lý của Phúc Âm khi nghe Chúa Giêsu chúc phúc cho những ai có tinh thần nghèo.
Nghịch lý này nằm ở chỗ là những gì con người tưởng chừng như vinh quang, hạnh phúc, và trường cửu thì đối với Thiên Chúa chỉ là tạm bợ, mây khói, và mau qua. Những thứ mà một cách nào đó, chỉ đem lại thêm sự thèm muốn, khát khao và đam mê mà dù có được thỏa mãn hay không được thỏa mãn đều khiến cho những ai tôn sùng, tìm kiếm và chiếm hữu nó phải băn khoăn và lo lắng. Ngược lại, những gì mà trước mắt con người thông thái, khôn ngoan cho là tầm thường, vô giá trị, đáng khinh bỉ lại trở nên quí giá vô cùng cho những ai biết khám phá và nhìn nó dưới ánh sáng của Tin Mừng.
Nghịch lý này cũng nằm ở chỗ là dù nghèo vật chất hay giầu có tiền của, nếu muốn hạnh phúc chúng ta phải sống bằng tinh thần nghèo Tin Mừng, nghèo Phúc Âm. Chính tinh thần và lối sống này mới giúp con người bóc lột hoàn toàn cái tôi của mình, cái tôi đáng ghét đầy tham, sân, si. Cái tôi sẵn sàng quỵ lụy và thần phục bất chính để miễn sao mình chiếm đoạt cho thật nhiều của cải vật chất, thật nhiều vinh quang, và thật nhiều quyền lực. Cái tôi mà sau này chính Chúa Giêsu đã phải nói với tất cả những ai muốn theo Ngài: “Hãy bỏ mình đi, vác thập giá mình mà theo Ta” (Mátthêu 16:24). Bỏ mình đi hay mặc lấy tinh thần nghèo cũng là một. Khi bỏ mình tức là đã tự mình ra nghèo vì mình. Từ bỏ ý tưởng quyền lực, ý nghĩ tự cho mình hơn người khác. Từ bỏ lối sống buông thả theo dục vọng. Từ bỏ mình để đón nhận những thua thiệt, thử thách, là chấp nhận đau khổ, chấp nhận bị ruồng bỏ vì lẽ công chính.
Đưa ra những lý do để được chúc phúc, và những điều kiện lãnh nhận phúc lành từ Thiên Chúa, Chúa Giêsu muốn con người tìm về cội nguồn hạnh phúc. Một thứ hạnh phúc không đến từ con người, nhưng đến từ Thiên Chúa. Một thứ hạnh phúc vĩnh hằng, có mãi và đem lại vui mừng hân hoan, bằng an cho tâm hồn. Dùng sự khó nghèo tâm linh như một yếu tố cần thiết để đón nhận phúc lành, và cũng để mở đầu cho Hiến Chương Tin Mừng của Ngài, là Ngài muốn chúng ta suy niệm một cách cốt lõi về ý nghĩa của cuộc đời và hạnh phúc thật sự mà con người phải tìm kiếm. Đúng ra, Ngài muốn nói chính Ngài mới là hạnh phúc thật. Và chỉ ở trong Ngài, con người mới có hạnh phúc và được hạnh phúc. Điều này thánh Augustine sau suốt thời gian ăn chơi trác tang, khi đón nhận ánh sáng Tin Mừng đã thổn thức ghi lại: “Chúa dựng nên tôi có một quả tim, và tim tôi không ngừng thao thức cho đến khi nó được nghỉ yên trong Ngài”.
Tóm lại, bỏ mình hay sống tinh thần nghèo cũng là một. Và sống nghèo tinh thần hay sống trong sạch, tiết độ, sống phó thác và khiêm nhường, sống với trái tim xây dựng hòa bình, với tinh thần chấp nhận vì lẽ công chính cũng là một. Và cái nghịch lý của Tin Mừng nằm ở chỗ đó. Nhưng liệu mấy ai nhận ra, và liệu có mấy ai khi nhận ra lại dám can đảm và sẵn sàng sống theo nghịch lý Tin Mừng này.

Nguồn: Gia Đình Nazareth (www.giadinhnazareth.org)

source
Vien Dong Daily