Saturday 24 December 2011

Giáo hoàng lên án Giáng sinh thương mại

Giáo hoàng lên án Giáng sinh thương mại

Cập nhật: 05:07 GMT - chủ nhật, 25 tháng 12, 2011

Giáo hoàng Benedict XVI
Giáo hoàng Benedict XVI trông yếu hơn trong lễ Giáng sinh năm nay
Giáo hoàng Benedict XVI lên án sự thương mại hóa ngày lễ Giáng sinh khi ông chủ trì thánh lễ Giáng sinh truyền thống tại Nhà thờ thánh Peter ở Rome.
Trong bài diễn văn của mình, Ngài đã kêu gọi các tín đồ Thiên chúa giáo ‘hãy nhìn xuyên qua những sự hào nhoáng bên ngoài của ngày lễ này và tìm thấy ở dưới nó là Chúa hài đồng trong chuồng ngựa ở Bethlehem’.
Giáo hoàng Benedict, năm nay 84 tuổi, đã đứng trên một bục di động để giúp đỡ ông di chuyển.
Ngài sẽ có bài diễn văn Urbi et Orbi (Gửi đến Thành Rome và Thế giới) trong ngày 25/12.
Trong khi đó, những người hành hương và khách du lịch Thiên chúa giáo từ khắp nơi trên thế giới đã tề tựu tại Bethlehem vào đêm 24/12 để tham dự lễ Giáng sinh.
Đỉnh điểm của buổi lễ là thánh lễ vào lúc nửa đêm tại nhà thờ Chúa Giáng sinh 1.700 tuổi vốn được xây dựng tại điểm mà người ta tin rằng Chúa Jesus đã chào đời.
Khoảng 120.000 người đã đổ về khu vực Bờ tây của lãnh thổ Palestine, tăng 30% so với năm ngoái, các quan chức Palestine cho hay.
Thánh lễ đêm Giáng sinh tại Rome được đẩy lên sớm hơn hai giờ vào lúc 10 giờ tối giờ điạ phương nhằm tránh cho Giáo hoàng một đêm thức khuya.
Trong bộ lễ phục màu vàng và kem, Giáo hoàng chậm rãi bước qua các hàng ghế trong Nhà thờ thánh Peter trên bục di động.
Ông kêu gọi các tín đồ hãy tập trung vào câu chuyện về sự ra đời của Chúa Jesus và nói rằng điều này sẽ giúp các tín đồ tìm thấy ‘niềm vui và ánh sáng thật sự’.
Ngài bày tỏ sự đau buồn trước tình trạng bạo lực vẫn còn tồn tại trên thế giới và cầu nguyện cho những người phải đón Giáng sinh trong đói nghèo và đau khổ.
Ngay cả khi sức khỏe của Giáo hoàng giờ đây đã yếu hơn, thông điệp của Ngài vẫn mạnh mẽ, phóng viên BBC Alan Johnston cho biết.
Ông cũng đã ban phước lành và đọc thông điệp tại Quảng trường thánh Peter trước hàng chục nghìn tín đồ đến từ khắp nơi trên thế giới.

Biến động tại Trung đông

Ở Bethlehem, Giáo trưởng Jerusalem Fuad Twal chủ trì thánh lễ lúc nửa đêm tại Nhà thờ Chúa Giáng sinh.
Ông bước qua cánh cổng lớn giữa hàng rào an ninh gây tranh cãi của Israel vốn phân cách Jerusalem với Bethlehem và đến Quảng trường Manger, nơi ông được chào đón bằng một dàn kèn túi.
Giáo trưởng Twal, một người gốc Palestine nhưng lại là công dân Jordan, đã bày tỏ sự quan ngại về hoàn cảnh của những người Thiên chúa giáo trong những biến động hiện tại ở Trung Đông và kêu gọi họ ủng hộ những bước tiến về phía tự do và dân chủ.
Bài diễn văn trong thánh lễ nửa đêm của ông kêu gọi sự quay trở lại của ‘yên bình và hòa giải ở Syria, Ai Cập, Iraq và Bắc Phi.’
“Ôi Chúa hài đồng ở Bethlehem, trong năm mới này, chúng con đặt vào đôi tay Ngài vùng Trung đông đầy bất ổn này, và trên hết, tuổi trẻ của chúng con với những hoài bão đúng đắn tìm kiếm một tương lai tốt đẹp hơn vốn gặp trở ngại do tình hình kinh tế chính trị,” diễn văn của ông có đoạn.
Tổng thống Palestine Mahmoud Abbas cũng tham dự các nghi thức Giáng sinh tại Bethlehem.
“Tôi cầu nguyện cho người Palestine năm tới sẽ là năm thực hiện được hòa bình trên các vùng đất bị chiếm đóng của người Palestine,” ông nói.
Thị trưởng Bethlehem Victor Batarseh cũng nói rằng ông hy vọng lễ hội Giáng sinh sẽ giúp người Palestine đến gần với g̣iấc mơ đạt được nhà nước.
source
BBC Vietnamese

Wednesday 21 December 2011

Hình ảnh hang đá Bê Lem – Nơi Chúa Giêsu sinh ra 2000 năm trước.



Mời quý vị và các bạn xem hình ảnh nơi Chúa sinh ra đời, nay thuộc phần đất của Palestine.  Dù quý vị thuộc tôn giáo nào..  cũng nên xem “thánh tích”   .. qua  Internet.. cho biết !!!
Hang Đá Bê Lem – Nhà Thờ Giáng Sinh
Grotto of Bethlehem – The Church of Nativity
Tọa lạc cách thành phố Jerusalem 8 km về hướng Nam, nhà thờ Giáng Sinh ở Bêlem là một trong những nhà thờ cổ nhất trên thế giới có sinh hoạt liên tục từ lúc xây dựng vào thế kỷ thứ tư đến nay.
Nhà thờ được xây cất ngay trên hang đá Bê lem. Chứng cứ đầu tiên về hang Bê lem được tìm thấy trong quyển sách của ông Justin Martyr viết vào khoảng năm 160.
Năm 327 thánh nữ Helène, mẹ của hoàng đế Constantin I cho xây cất nhà thờ Giáng Sinh.
Năm 529 nhà thờ bị đốt cháy trong cuộc nỗi dậy Samaritan.
Năm 565 hoàng đế Justinian I cho xây dựng lại và tồn tại đến nay.
Khi Bê lem bị người Ba Tư xâm chiếm vào năm 614, viên chỉ huy Shahrbaraz đã không ra lệnh tiêu hủy nhà thờ này vì nhìn thấy hình ba vị Vua phương Đông với trang phục của dân Ba Tư.
Trong các lần chiến tranh với Hồi giáo, nhà thờ đã ngụy trang bằng cách làm cổng vào nhỏ lại và mặt tiền không có vẽ là nhà thờ.  Đó là lý do tại sao ngày nay nhà thờ Giáng Sinh không có chút gì uy nghi cao cả.
Có lẽ nhờ thế, nhà thờ Giáng Sinh đã giữ được tinh thần đơn sơ khó nghèo như lúc Chúa sinh ra cách nay 2000 năm!
Khu nhà thờ Giáng Sinh nhìn từ quảng trường Máng Cỏ (Manger Square)

Phải lại gần hơn mới thấy cổng vào nhà thờ

Và phải cúi mình xuống mới vào được

Chánh điện bên trong nhà thờ – Trên nền nhà là nơi khai quật…

các nhà khảo cổ đã tìm được nền nhà thờ cũ từ năm 327

Tới gần bàn thờ – chú ý phía bên phải nơi có người đứng là cổng xuống hang đá Bê Lem

Bên trái bàn thờ có hình Đức Mẹ và Chúa Hài Đồng với nến cháy lung linh

Và khi tắt nến

Cổng bước vào hang đá Bê Lem

Hành lang nhỏ dẫn tới hang đá Bê Lem

Bước xuống các bậc thang là nơi Con Chúa Ra Đời. Bên phải: nơi Chúa sinh ra – Bên trái: máng cỏ

Máng cỏ nơi Chúa nằm sau khi sinh ra

Nơi Chúa Giêsu sinh ra được đánh dấu với ngôi sao 14 cánh

Các chữ vòng quanh bên trong ngôi sao: Hicde Virgine Maria Jesus Christus Natus Est
Có nghĩa là: Nơi đây Trinh Nữ Maria đã hạ sinh Đức Giêsu Kitô

Chính diện hang đá Bê Lem

Các hàng cột bên trong nhà thờ

Xen kẻ các bình đèn

Theo kiểu Chính Thống Giáo

Tạm biệt hang đá Bê Lem

Tạm biệt nhà thờ Giáng Sinh

Phía trước Nhà Thờ Giáng Sinh là Quảng Trường Máng Cỏ với đền thờ Hồi giáo.

source
tredeponline.com

Saturday 17 December 2011

Những cuộn Thánh Kinh xưa 4.000 năm


Những cuộn Thánh Kinh xưa 4.000 năm
(VienDongDaily.Com - 05/12/2011)
Cậu bắc tay lên miệng làm loa, hô lên mấy tiếng gọi dê, nhưng chỉ có tiếng của cậu vang vọng lại, còn dê vẫn im lìm. Thấy vậy cậu bé đành chịu khó leo lên đến tận nơi để tìm kiếm.
Hồ Sĩ Viêm/Viễn Đông

Nhà báo Hồ Sĩ Viêm vừa qua đời tại Quận Cam, Nam California, ngày 28-11-2011, hưởng thọ 83 tuổi. Trước khi mất, ông đã giao lại cho nhật báo Viễn Đông một khối lượng bài viết gồm hàng trăm bài, để đăng dần trên trang Thế Giới Quanh Ta mỗi Thứ Ba hàng tuần và để chọn lọc in thành sách. Quyển sách có cùng tựa đề Thế Giới Quanh Ta đã được Công ty nhật báo Viễn Đông ấn hành vào tháng 3-2011.
-----------


Những cuộn Thánh Kinh xưa tìm thấy ở vùng Biển Chết - ảnh: Israel Antiquities Authority, 1993

Sự kiện tìm ra những cuộn Thánh Kinh xưa trên 4.000 năm, đúng là một sự ngẫu nhiên, vô tình. Hôm đó vào năm 1947, một cậu bé 15 tuổi người Bedouin, tên là Muhammad adh-Dhib, thuộc một sắc dân du mục thường sinh sống trên sa mạc, đang chăn một bầy dê trên một sườn núi cạnh vùng Biển Chết. Mê say ngắm trời biển, cậu lãng quên không để ý gì đến bầy thú trong một khoảng khắc. Rồi... choàng tỉnh, như qua một giấc mơ, cậu đếm lại bầy dê, thì thấy thiếu một con. Ngoảnh đi, ngoảnh lại, tìm quanh quẩn không thấy đâu, cậu đã thấy lo lo, nhưng nỗi vui chợt đến, khi cậu nhìn thấy bên kia vách núi, cửa một chiếc hang đen ngòm, có lẽ là khá sâu. Cậu bắc tay lên miệng làm loa, hô lên mấy tiếng gọi dê, nhưng chỉ có tiếng của cậu vang vọng lại, còn dê vẫn im lìm. Thấy vậy cậu bé đành chịu khó leo lên đến tận nơi để tìm kiếm. Mới đầu vì choáng nắng, cậu thấy hang tối om và sâu hun hút, nên không dám bước vào. Cậu nhặt một hòn đá vừa tầm tay, thẳng cánh ném mạnh vào để đuổi dê. Quả thật có con dê nằm tránh nắng bên trong chạy ra, nhưng từ trong sâu cũng có một tiếng “choang” lớn vọng theo. Cậu bé ngạc nhiên lắm, vì biết rằng hòn đá của cậu đã được ném trúng vào một cái bình, hay cái vại bằng đất nung nào đó, nên nó mới có tiếng vỡ như thế. Tuy vậy, vì có một mình, nên cậu cũng không dám vào, mà đành đuổi đàn dê về nhà, để hôm sau rủ thêm một người bạn, để cùng đi thám thính cho thỏa tính tò mò.


Qumran ở Bờ Tây, nơi tìm thấy những cuộn Thánh Kinh cổ xưa - ảnh: Effi Schweizer, 2007.

Hôm sau hai cậu bé rủ nhau đi mang kèm theo vài bó đuốc để lỡ cần đến. Chiếc hang này cửa ra vào nhỏ, nhưng phía trong rộng lắm và hòn đá cậu bé vô tình ném vào đã trúng vào một chiếc bình bằng sành làm nó vỡ toang, lộ ra bên trong những cuộn giấy cổ xưa cuốn ngoài bằng vải gai. Chính ra, nếu không có hòn đá từ trên cao bay vòng xuống rớt trúng, thì dù có người vào thám thính, cũng rất khó tìm thấy những chiếc bình sành này, vì nó nằm kín sâu sau một tảng đá lớn nữa. Hai cậu bé liền nhặt vài cuộn đem ra ngoài sáng để nhìn cho rõ, thì thấy đây là loại giấy cổ xưa như làm bằng da và trên đó viết bằng một thứ chữ kỳ lạ. Tuy không hiểu là gì, nhưng hai cậu bé cũng cảm thấy có sự gì kỳ bí và đoán ra những cuộn giấy quá cũ kỹ này chắc cũng có một giá trị nào đó. Do vậy vài hôm sau họ xách vài cuốn đến chợ Bethlelem để hỏi một vị tu sĩ Hồi Giáo. Hai cậu bé này không thể ngờ rằng các em đã là người đầu tiên tìm ra tài liệu viết tay cổ xưa nhất của nhân loại và là một sự khám phá quan trọng nhất trong thế kỷ.
Chẳng bao lâu, nguồn tin này lan rộng ra toàn thế giới và từ đó người ta đặt tên cho những cuộn tài liệu viết tay cổ xưa nhất này là “Dead Sea Scroll”, lý do chúng đã được tìm thấy ở hang động, cách Biển Chết có l dặm. Sau đó người ta còn tìm thêm được tại các thành cổ đổ nát Qumran và trong 11 hang động của những ngọn núi gần đó cũng những tài liệu viết tay cổ xưa có tới trên 4.000 năm. Tuy nhiên, nhiều tài liệu vì qua thời gian quá dài đã mủn nát thành những mảnh nhỏ ghép lại rất khó. Tra cứu tìm tòi các nhà bác học đã thấy những cuốn tài liệu này phần lớn viết bằng tiếng Hebrew, chữ chính của người Do Thái, ngoài ra một số viết bằng tiếng Hy Lạp rồi tiếng Aramaic, có lẫn thổ ngữ Nabataean.
Sau thời gian dài nghiên cứu cặn kẽ, các nhà bác học xác định rằng thời kỳ viết những cuộn tài liệu này khởi đầu từ thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên và chấm dứt khoảng năm 70 đến 80 sau CN, năm đương thời với Chúa Jesus Christ, tức thời kỳ người Do Thái bị đuổi ra khỏi thành Jerusalem và khỏi mảnh đất quê hương của họ để tản mát lang thang trên khắp địa cầu trên thời gian dài gần 2.000 năm. Cuộn tài liệu viết tay cổ xưa có chép lại những mẩu chuyện đã xẩy ra từ 2.000 năm trước nữa và cũng chép lại hầu như toàn thể cuốn Cựu Ước Kinh, những câu sấm truyền của nhà Tiên tri Isalah, cũng như ghi lại những Giáo Điều trong Do Thái Giáo.
Hiện nay những cuộn “Dead Sea Scroll” này đang được cất giữ tại một thư viện của người Do Thái tại Jerusalem và được gọi là Những Cuộn Thánh Kinh nơi vùng Biển Chết. Tại sao những cuộn Thánh Kinh này lại phải cất giấu ở những nơi thật hiểm hóc, khó tìm? Dựa theo những đồng tiền của Đế Quốc La Mã phát hành ngày đó được tìm thấy, các nhà khảo cổ đã suy luận rằng người Do Thái cổ hồi đó, bị sống dưới sự đô hộ của người La Mã, nhưng ý chí quật cường của họ không suy giảm. Họ âm thầm tổ chức cuộc chống đối, nhưng lo xa hơn, họ đã chở đi giấu trước những cuộn Thánh Kinh, hầu mong để lại cho hậu thế, khỏi bị quân thù đốt cháy.

Vài dòng lịch sử của người Do Thái

Theo Thánh Kinh, người Do Thái đầu tiên được đề cập tới là ông Abraham. Ông này mãi tới khi ngoài 100 tuổi mới sinh được một người con tên là Isaac và khi Isaac lớn lên lấy được một người con gái mà ông yêu quí có tên là Rebek'ah. Hai vợ chồng này sinh được hai người con trai, nhưng tính xung khắc nhau nên Isaac phải gửi một người con tên là Jacob sang ở với một người thân tại một miền thật xa có tên là Ha'ran. Hồi đó Đạo giáo chưa cấm đàn ông lấy 2 vợ, nên Jacob lấy cả 2 chị em và sinh được 12 người con.
Trong số các người con này có một người tên là Joseph, tính nết hiền lành được Jacob yêu mến, nhưng cũng vì thế mà các người con khác ganh tÿ. Đồng thời Joseph còn thật thà thuật lại một giấc mơ, trong đó anh thấy mấy anh em phục lạy dưới chân mình. Từ chuyện đó họ càng thêm thù ghét Joseph. Cho đến một hôm Joseph được cử đi chăn cừu tại một chân núi thật xa nhà. Được dịp mấy người anh em khác kéo nhau tới, gây gổ, định giết Joseph. Bỗng một toán thương nhân chở hàng đi qua, các anh em này vội đổi ý kiến bán luôn Joseph làm nô lệ để lấy một số tiền. Họ trở lại nhà đem theo cái áo choàng của Joseph có tẩm máu cừu để cho Jacob tin tưởng là đứa con yêu dấu của mình bị thú rừng giết chết.
Lúc đó Joseph mới có 17 tuổi, được đoàn thương buôn đem tới Ai Cập và tại đây họ bán cho một người có tên là Potiphar, là một vị quan cận thần của Vua Pharaoh. Biết thân phận mình, nên Joseph làm việc rất cần mẫn để được lòng chủ. Quả, anh ta đã được yêu mến, nhưng lại được yêu bởi bà chủ. Người đàn bà này thấy Joseph đẹp trai, khỏe mạnh, nên gạ chung chạ với mình. Joseph không chịu, do vậy bà ta tức giận, vu cáo với chồng là Joseph định hãm hiếp mình. Potiphar, nghe lời vợ tức giận quá, nên nhốt Joseph vào ngục. Thấy Joseph dễ thương, chính người cai ngục cũng yêu mến nên cất nhắc anh ta làm chủ của các tù nhân khác. Trong lúc đó lao ngục lại thêm hai người tù nhân mới. Một người người giữ trọng trách lo rượu cho vua, một người làm bánh. Cùng đêm đó hai người nằm mơ, hai giấc mơ khác nhau. Họ đang bàn tán thì Joseph đi qua chợt nghe thấy. Vốn được thần linh trợ giúp, nên Joseph đã hiểu ngay hai giấc mộng, nên anh ta nói với người làm bánh rằng, chỉ 3 ngày nữa ông này sẽ bị chặt đầu. Còn đối với người hầu rượu, Joseph cho hay trong bốn ngày nữa, ông này sẽ được Vua nghĩ lại, tha tội cho và cho giữ nhiệm vụ cũ. Nói xong anh ta còn dặn người hầu rượu, lúc đó hãy nghĩ đến Joseph, để xin tha cho anh ta. Ba, bốn ngày sau, quả nhiên mọi việc đều xẩy đúng như lời Joseph tiên đoán. Tuy nhiên khi trở lại chức vụ cũ rồi, người hầu rượu quên hẳn Joseph. Mãi hai năm sau, chợt một đêm nhà Vua nằm mơ thấy một giấc mơ kỳ lạ. Sáng dậy, ông cho vời một nhà thông thái để vào đoán mộng, nhưng người này suy nghĩ mãi không ra. Lúc bấy giờ người hầu rượu mới chợt nghĩ tới và tiến cử Joseph.
Trước sân rồng, Joseph được nhà Vua kể rằng, Vua mơ thấy có 7 con bò thật béo, thật đẹp. Rồi sau đó lại thấy 7 con bò khác ốm tong teo, trơ cả xương. Nhưng rồi 7 con bò ốm đã ăn thịt cả 7 con bò béo. Joseph đã đoán rằng 7 con bò béo đã biểu hiệu cho 7 năm được mùa rất lớn tại Ai Cập còn 7 con bò ốm là biểu hiệu cho 7 năm tiếp đó thu hoạch mùa màng sẽ rất kém. Đoán xong, Joseph còn đề nghị với nhà Vua hãy chọn lựa những người giỏi để thu mua lúa vào những năm được mùa, hầu dự trữ cho 7 năm sau. Nghe vậy nhà Vua rất hài lòng và cắt cử ngay Joseph làm vị quan phụ trách vấn đề đó. Quả nhiên 7 năm đầu tiên, mùa màng của Ai Cập rất tươi tốt, số thu hoạch rất lớn, nhưng qua năm thứ 8 vì thời tiết xấu, nên mọi nơi đói kém, người dân không đủ ăn. Dĩ nhiên những điều tiên đoán của Joseph đều đúng hết, nên ông ta trở thành một nhân vật quan trọng kế cận với Vua. Lúc bấy giờ nhà Vua mới sai Joseph mở kho, phát chẩn thực phẩm cho dân chúng.
Hôm đó, đứng nhìn đoàn người đến nhận phát chẩn, Joseph nhận ra 10 người anh mình. Nhớ tới giấc mơ ngày xưa, chính những người này đã phủ phục dưới chân, nên Joseph cho là Chúa đã định trước, đã có ý đưa mình đến Ai Cập, nên anh bỏ hết hận thù, trở lại yêu mến gia đình mình như xưa. Tuy nhiên, để hiểu tình cảnh gia đình mình hơn nữa và để thử lòng mấy người anh em, ông sai lính giam họ vào một phòng trong dinh với lý do nghi ngờ họ là những gián điệp. Hiện nay, Joseph to lớn hơn xưa và nhất là vì quyền uy quá cao và quần áo đẹp đẽ, nên không một ai nhận ra anh ta. Do đó, Joseph được biết cha già còn sống và một người em ở lại nhà trông nom. Đã có ý định, nên Joseph chỉ cấp phát cho ít lương thực, hẹn kỳ sau sẽ cấp phát nhiều, nhưng phải để một người khác ở lại trong nom cha, còn người em út tên là Benjamin phải lên theo. Quả nhiên, chỉ một thời gian ngắn, ăn hết lương thực họ lại kéo lên. Lần này, Joseph mới mời tất cả vào phòng mình và sau khi đuổi hết quân hầu ra, ông mới tỏ lộ chân tướng và mấy anh em đã ôm lấy nhau, mừng mừng, tủi tủi, trong niềm hạnh phúc tràn ngập. Ông đã tha thứ tất cả mọi điều lỗi xưa và vào tâu với vua mọi sự việc của gia đình mình. Quá yêu mến Joseph, nên nhà Vua hưởng ứng ngay sự xum họp của gia đình Joseph và cấp phát ngay ngựa, xe và binh lính về tận quê để đón gia đình.
Gia đình của cụ Jacob hiện giờ đã quá lớn, nào ông bà, gia đình con và cháu chắt, tổng cộng tất cả đến hơn 70 người. Họ kéo nhau bắt đầu định cư tại Ai cập. Họ đều được gọi là Israelites, tức gia đình Israel, vì Chúa đã đổi tên ông Jacob thành Israel, ta dịch là Do Thái. Dân tộc Israel có sự hiện diện tại Trung Đông bắt đầu từ ngày đó và sẽ trải qua biết bao nhiêu sự thăng trầm, hợp tan, tan hợp suốt dòng lịch sử trên 4.000 năm.

Nguồn: http://www.viendongdaily.com/nhung-cuon-thanh-kinh-xua-4000-nam-m4YGSSuE.html
Hồ Sĩ Viêm/Viễn Đông
source
Vien Dong Daily

Monday 14 November 2011

Những mốc thời gian

(VienDongDaily.Com - 10/02/2011)
Ở dưới bầu trời này, mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời: một thời để chào đời, một thời để lìa thế; một thời để trồng cây, một thời để nhổ cây; một thời ...

2011_0018-(2).jpg
Bà Ba Phải
(Trích trong Giai Phẩm Xuân Viễn Đông Tân Mão 2011)


Ở dưới bầu trời này,
mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời:
một thời để chào đời, một thời để lìa thế;
một thời để trồng cây, một thời để nhổ cây;
một thời để giết chết, một thời để chữa lành;
một thời để phá đổ, một thời để xây dựng;
một thời để khóc lóc, một thời để vui cười;
một thời để than van, một thời để múa nhẩy;
một thời để quăng đá, một thời để lượm đá;
một thời để ôm hôn, một thời để tránh hôn;
một thời để tìm kiếm, một thời để đánh mất;
một thời để giữ lại, một thời để vất đi;
một thời để xé rách, một thời để vá khâu;
một thời để làm thinh, một thời để lên tiếng;
một thời để yêu thương, một thời để thù ghét;
một thời để gây chiến, một thời để làm hòa
Đoạn văn trên được trích từ Cựu Ước, lời nói của vua Cô He Lét, con vua Đavít.
Theo Kinh Thánh, ông vua này là một người rất kính sợ Thiên Chúa. Theo ý ông thì mọi sự, mọi điều Thiên Chúa đã an bài, thời nào, việc nấy, con người chỉ cần vâng phục, làm đúng ý Chúa, mà không cần thay đổi, sửa chữa. Vì sự gì đã có, đã có từ ngàn xưa, sự gì không có, con người không làm sao tạo thêm ra được. Cái gì cong thì không thể nào kéo thẳng ra. Vậy thì chỉ cần kính sợ, làm những điều Thiên Chúa bảo. Tất cả mọi hoạt động nào, đi ra ngoài thời điểm đã được ấn định đều là vô ích. Tất cả mọi sự trên đời đều là phù vân, là công dã tràng xe cát! Người khôn cũng chết, mà người dại cũng chết. Càng nhiều khôn ngoan, càng nhiều phiền muộn. Càng thêm hiểu biết, càng thêm khổ đau. Vì thế, đối với con người, không có hạnh phúc nào hơn là hưởng thú vui, và sống thoải mái! Ngay cả chuyện ăn uống và hưởng những thành quả do công lao khó nhọc mình làm ra, thì đó đã là một món quà Thiên Chúa ban tặng rồi.
Những lời răn dạy cùng triết thuyết của ông vua này cũng không có gì mới mẻ. Từ ngàn xưa, trong chúng ta ai cũng đã từng đọc qua, nghe qua, nhưng ít ai áp dụng. Cái chuyện phù vân, không xa lạ gì với con người. Nhưng cái gì là phù vân, cái gì là vĩnh cửu vẫn còn là một sự tranh cãi dài dài. Đối với người này, cái này có thể là phù vân, cái kia, mới là vĩnh cửu, nhưng cũng có thể ngược lại. Cái bạn cho là phù vân tôi lại cho là bền vững. Cái tôi coi thường, bạn lại cho là quí giá. Nhưng vấn đề hưởng hạnh phúc, sống cho thoải mái thì tất cả mọi người đều công nhận, đó là mục đích đầu tiên con người tìm đến. Từ thời Cựu Ước tới nay, mọi người đều đổ xô đi tìm hạnh phúc và một cuộc sống thoải mái. Nhưng chính vì cái sự tìm kiếm này, mà con người chẳng thể nào được sống thoải mái. Trong lúc đổ xô đi tìm, ai cũng muốn mình tới đích đầu tiên, mình là người đầu tiên tìm thấy, cho nên tất cả mọi người, khi đã bước chân vào đời, là luôn ở trong trạng thái vội vàng, hấp tấp. Tất cả mọi người đều quên mất cái thời khóa biểu ông Cô He Lét đưa ra, ai cũng muốn chạy cho nhanh, cho chóng đến đích. Thời điểm đáng lẽ dành để làm việc này, con người lại dùng vào làm việc khác. Cho nên trật tự của cuộc sống bị rối beng.
Chỉ những năm đầu đời, đứa trẻ mới chịu chấp nhận sự bé nhỏ của mình, chịu nằm trong cái qui luật thời điểm, chịu làm trẻ con. Khi đã bắt đầu hiểu biết, đứa trẻ đã muốn vượt thời gian, muốn đốt giai đoạn, bằng những ước mơ: khi nào tôi lớn..... Hình như ước mơ đầu tiên của con người là được làm người lớn. Đứa trẻ con đếm từng ngày, từng tháng, từng năm để được làm người lớn. Năm nay con lên bốn... con lên năm tuổi rưỡi rồi.... Khi học tiểu học, đứa bé mong chóng lớn để được lên trung học. Khi học trung học, nó lại mong cho chóng xong trung học, để được vào đại học. Khi vào đại học, chúng lại mong sao cho chóng xong đại học để ra đời, để đi làm, để kiếm thật nhiều tiền, để lập gia đình, để có con. Khi có con, chúng mong sao cho con chóng lớn để bớt trách nhiệm. Chúng mong cho con trưởng thành, ra đời, tự lập, để chúng bớt lo. Chúng mong cho trả hết nợ nhà, chúng mong trả hết nợ xe. Chúng mong sao cho chóng tới ngày chúng được về hưu để an hưởng. Nhưng khi về hưu thì tuổi già đã đến sau lưng. Chỉ khi ốm nằm trên giường hấp hối, chúng mới giật mình, thấy rằng, suốt cả đời, chúng chỉ chạy theo những mốc thời gian trước mặt. Chúng chưa bao giờ biết đến hiện tại, và cái kinh hoàng hơn cả, là chúng bỗng nhận ra, là chúng chưa hề sống bao giờ. Mà giờ đây, chúng đang nằm chờ chết!
Những đoạn văn như thế, đầy rẫy trên sách báo, với hy vọng thức tỉnh con người, nên sống trong hiện tại, vì hiện tại là một món quà của Thượng Đế. Những nhà khôn ngoan, khuyên nhủ con người hãy sống trong hiện tại vì quá khứ đã qua, tương lai chưa đến, không ai biết sẽ ra sao, chỉ có hiện tại là có thật. Thế nhưng không ai quan tâm tới lời khuyên thành thật này, mà tất cả đều hướng về tương lai, chạy về phía trước.
Cuộc sống càng đầy đủ, tiện nghi và xa hoa bao nhiêu, thì con người càng vất vả bất nhiêu. Người ta có tất cả, nhưng người ta lại không có thì giờ để hưởng thụ. Trong khi, tại những vùng đất chưa phát triển, con người nhàn hạ, có nhiều thì giờ, thì lại không có gì để hưởng thụ. Người ta đề nghị, muốn sống một cuộc sống có giá trị tinh thần, con người nên và cần sống chậm lại. Cố gắng dành thì giờ cho chính mình, cho gia đình, cho những người thân yêu của mình. Nói một cách khác, cần phải dành thì giờ để thưởng thức đời sống. Có nhiều người thực tế hơn, khuyên nhủ bà con, nên sống như mình sắp chết! Vì, chỉ khi biết rằng mình không còn bao nhiêu thì giờ để sống, con người mới chấp nhận đi chậm lại, hoặc dừng lại. Chỉ khi nhìn thấy bóng dáng Tử Thần thập thò ngoài ngõ, con người mới nhìn ra, mới hiểu được cái gì là phù vân, cái gì là vĩnh cửu. Lúc đó, may ra, họ mới dừng chân lại, để bỏ đi những gì là phù vân, và nắm bắt cái vĩnh cửu. Nhưng đôi khi không còn kịp nữa. Thời điểm đã đi qua.
Tại Canada, một quốc gia tiến bộ, có một nếp sống vật chất không thua kém người Mỹ mấy tí, đã cảm nghiệm được cái sự làm việc quá độ, sống vội vàng quá sức, không tốt cho đời sống con người, cho nên, mỗi năm, chính phủ dành ra một ngày ngày 26 tháng 6 – gọi là ngày Không Vội Vã, No Hurry Day. Ngày đó tất cả mọi công sở đều đóng cửa, cho nhân viên nghỉ việc. Mọi người có quyền sống theo ý mình. Muốn ngủ đến giờ nào thì ngủ, muốn làm gì thì làm mà tuyệt đối Không Được Vội Vã, để tận hưởng sự sống một cách nhàn nhã theo ý muốn của mình. Bà nội trợ có quyền không nấu ăn mà đem gia đình đi ăn tiệm. Tất cả mọi người trong gia đình đều dùng cái ngày ấy để vui chơi với nhau, để nghỉ ngơi, để thoải mái, để có một ngày hội họp, chung vui, chung sống. Tuy chỉ có một ngày ngắn ngủi, nhưng tất cả mọi người đều coi đấy như một liều thuốc bổ, rất cần thiết, cho con người, có thể dứt khoát hẳn với những công việc bề bộn quanh năm, và có thì giờ hưởng thụ sự thanh nhàn. Nhưng điều đáng buồn, cần nêu lên là, rất có thể, sau cái ngày hiếm quí đó, mọi người lại phải làm việc gấp đôi, để lấy lại thời gian đã mất vào ngày Không Vội Vã, hôm trước. Cho nên, rút cục, đâu lại hoàn đấy.
Không có lẽ con người tối dạ, hay vốn dĩ kiêu ngạo, nên thiếu đức vâng lời. Tuy biết rằng, mọi việc trên đời đều có thời điểm, nhưng vì bướng bỉnh, vì khó dạy, vì chậm hiểu, nên đôi khi, vẫn làm những việc không đúng nơi, đúng lúc, vẫn cố gắng chạy theo phù vân, làm nhưng việc không đáng làm, mà những việc cần làm lại không làm??
Có một lời khuyên mà có lẽ, chúng ta nghe đã nhàm tai, là phải dành thì giờ cho những người thân. Thế nhưng lúc nào cần phải làm việc đó, thì chúng ta thấy không cần gấp gáp. Ta còn đây, người thân còn đó, lúc nào nói yêu nhau chả được, lúc nào muốn chứng tỏ tình thương cũng hợp thời, đúng lúc, nhưng không phải là bây giờ.
Một người bạn khi thấy ông xã tôi nay đau mai ốm, mà tuổi đời đã lớn, ông ngỏ ý muốn lại thăm, nhưng ông xã tôi từ chối. Thật tình ông không muốn gặp bạn bè, khi trong người không được khỏe, mặt mũi xấu xí, xác xơ, cho nên ông cứ hẹn lần. Còn ông bạn thì cứ nhất quyết muốn thăm ông một lần, có thể là lần cuối, vì ông nói, gặp bây giờ mới có ý nghĩa, còn khi đã nằm trong hòm, có tới thăm cũng vô ích. Sau nhiều lần nhắn tin qua lại, ông chồng tôi cảm thấy, đối xử như vậy là phụ lòng tốt của bạn, ông bằng lòng hẹn gặp. Nhưng hẹn qua hẹn lại, hết tuần này lại tuần khác, không thấy ông bạn tới. Sau cùng mới vỡ lẽ ra, ông bạn mới biết, ông bị một chứng ung thư cấp tính, bây giờ đến lượt ông, không muốn gặp ai!! Một lần nữa, điều này chứng tỏ cho chúng ta biết rằng, điều gì làm được hôm nay, chớ nên để đến ngày mai. Vì ngày mai có thể không bao giờ đến! Đó là những định luật thật là tầm thường, thế mà chúng ta vẫn vấp phải. Khi hai người bạn này gặp nhau, để thăm nhau, không biết đó sẽ là lần cuối của người nào?
Những sự lỗi hẹn với cuộc đời, xảy ra hàng ngày. Sau khi chúng xảy ra, chúng ta đau buồn, nuối tiếc, nhưng trước đấy, dù biết trước là ngày mai có thể sẽ không bao giờ đến, nhưng trong lòng, chúng ta luôn nghĩ, điều đó có thể xảy ra cho người khác, nhưng nó không thể xảy ra cho bản thân mình. Vì thế, con người luôn luôn lỡ hẹn, rồi sống trong ân hận.
Có vài thời điểm rất cần thiết cho cuộc sống con người mà hình như ông vua trong Cựu Ước quên không nhắc tới:
Một thời để làm việc, một thời để nghỉ ngơi
Một thời để sống cho mình, một thời để dành cho những người thân.
Như vậy, may ra con người mới thoát khỏi những nuối tiếc do chính mình gây ra.
source
VienDongDaily 
Nguồn: http://www.viendongdaily.com/nhung-moc-thoi-gian-oaKEu2F5.html

Sunday 13 November 2011

Sự nghịch lý của Phúc Âm


(VienDongDaily.Com - 06/10/2011)
TS. Trần Mỹ Duyệt

“Phúc cho những ai có tinh thần nghèo”.

Những nghịch lý xảy ra trong thời đại của chúng ta hiện nay chung quy cũng chỉ vì đồng tiền. Các nước nghèo ganh tỵ với các nước giầu. Các nước giầu lại muốn dành ngôi vị bá chủ. Từ sự giầu nghèo vật chất dẫn đến giầu nghèo tinh thần. Và hai dòng chảy này luôn luôn xung khắc với nhau không có câu trả lời thỏa đáng.
Chúa Giêsu cũng đã biết rõ điều này nên khởi đầu sứ mạng rao truyền Tin Mừng, Ngài đã dùng đề tài này để nói với quần chúng. Ngài không hứa hẹn gì và cũng không tuyên bố gì ngoại trừ những lời hứa mà thoạt nghe không làm êm ái lỗi tai người nghe, và cũng không đáp ứng được với những khao khát của phần đông nhân loại. Có chăng, Ngài đứng về phía đông những người nghèo khổ, nhỏ bé bị đời hất hủi, quên lãng. Những người vì Tin Mừng bị bách hại, đối xử bất công. Chúng ta hãy nghe Chúa nói: “Phúc cho những ai có tinh thần nghèo. Phúc cho những ai hiền lành. Phúc cho những ai đang bị khóc lóc. Phúc cho những ai đói khát sự công chính. Phúc cho những ai biết xót thương. Phúc cho những ai có tâm hồn trong sạch. Phúc cho những ai xây dựng hòa bình. Phúc cho những ai bị bắt bớ vì lẽ công chính” (Xem Mat 5:1-12).
Nghèo mà hạnh phúc thì khó nghe quá! Chỉ riêng một chữ nghèo mà thôi cũng liên quan đến bao chữ nghĩa khác: Khó khăn “nghèo khó”, khổ sở “nghèo khổ”, túng quẫn “nghèo túng”, bị đời khinh bỉ “nghèo hèn”, và làm cho con người trở nên dốt nát: “Cái khó nó bó cái khôn”. Ai ai cũng sợ nghèo, tránh nghèo, và khinh bỉ nghèo. Ai ai cũng cố ngoi lên cho khỏi kiếp nghèo. Và ai ai cũng biết rằng giàu tiền bạc đưa đến giàu quyền lực, giàu danh vọng. Khi có tiền của, có danh vọng, và quyền lực là có tất cả: “Có tiền mua tiên cũng được”. Vì thế nên sức hấp dẫn và mãnh lực đồng tiền khó ai mà chống cự nổi. Chúa Giêsu đã xếp hạng tiền của ngang hàng với chúa của những kẻ ham mê nó: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được” (Mátthêu 6:24).
Từ sự nghèo khó vật chất dẫn đến sự nghèo khó tinh thần. Sức mạnh tiền bạc đang ảnh hưởng trên toàn diện sinh hoạt của con người. Nhìn vào hệ thống tham nhũng chằng chịt của xã hội cũng đủ để kết luận rằng, những người có tinh thần nghèo, những người trong sạch, ngay thẳng hiện nay rất hiếm hoi và hầu như đang bị tuyệt chủng! Bài toán xã hội cũng là bài toán bất công mà kết cục cũng chỉ vì tiền, tiền, và tiền. Tiền có thể mua được bằng cấp, địa vị, và chức quyền. Tiền cũng có thể mua được những giây phút thỏa mãn của cơn khát dục vọng. Từ tiền đưa đến ăn chơi xa xỉ. Những tệ nạn của xã hội, tội ác xã hội xảy ra cũng vì tiền. Hòa bình bị đe đọa, chiến tranh, khủng bố khắp nơi cũng vì sự bất công xã hội, bất công giữa kẻ giầu và người nghèo. Điều này đã trở thành một nghịch lý của Phúc Âm khi nghe Chúa Giêsu chúc phúc cho những ai có tinh thần nghèo.
Nghịch lý này nằm ở chỗ là những gì con người tưởng chừng như vinh quang, hạnh phúc, và trường cửu thì đối với Thiên Chúa chỉ là tạm bợ, mây khói, và mau qua. Những thứ mà một cách nào đó, chỉ đem lại thêm sự thèm muốn, khát khao và đam mê mà dù có được thỏa mãn hay không được thỏa mãn đều khiến cho những ai tôn sùng, tìm kiếm và chiếm hữu nó phải băn khoăn và lo lắng. Ngược lại, những gì mà trước mắt con người thông thái, khôn ngoan cho là tầm thường, vô giá trị, đáng khinh bỉ lại trở nên quí giá vô cùng cho những ai biết khám phá và nhìn nó dưới ánh sáng của Tin Mừng.
Nghịch lý này cũng nằm ở chỗ là dù nghèo vật chất hay giầu có tiền của, nếu muốn hạnh phúc chúng ta phải sống bằng tinh thần nghèo Tin Mừng, nghèo Phúc Âm. Chính tinh thần và lối sống này mới giúp con người bóc lột hoàn toàn cái tôi của mình, cái tôi đáng ghét đầy tham, sân, si. Cái tôi sẵn sàng quỵ lụy và thần phục bất chính để miễn sao mình chiếm đoạt cho thật nhiều của cải vật chất, thật nhiều vinh quang, và thật nhiều quyền lực. Cái tôi mà sau này chính Chúa Giêsu đã phải nói với tất cả những ai muốn theo Ngài: “Hãy bỏ mình đi, vác thập giá mình mà theo Ta” (Mátthêu 16:24). Bỏ mình đi hay mặc lấy tinh thần nghèo cũng là một. Khi bỏ mình tức là đã tự mình ra nghèo vì mình. Từ bỏ ý tưởng quyền lực, ý nghĩ tự cho mình hơn người khác. Từ bỏ lối sống buông thả theo dục vọng. Từ bỏ mình để đón nhận những thua thiệt, thử thách, là chấp nhận đau khổ, chấp nhận bị ruồng bỏ vì lẽ công chính.
Đưa ra những lý do để được chúc phúc, và những điều kiện lãnh nhận phúc lành từ Thiên Chúa, Chúa Giêsu muốn con người tìm về cội nguồn hạnh phúc. Một thứ hạnh phúc không đến từ con người, nhưng đến từ Thiên Chúa. Một thứ hạnh phúc vĩnh hằng, có mãi và đem lại vui mừng hân hoan, bằng an cho tâm hồn. Dùng sự khó nghèo tâm linh như một yếu tố cần thiết để đón nhận phúc lành, và cũng để mở đầu cho Hiến Chương Tin Mừng của Ngài, là Ngài muốn chúng ta suy niệm một cách cốt lõi về ý nghĩa của cuộc đời và hạnh phúc thật sự mà con người phải tìm kiếm. Đúng ra, Ngài muốn nói chính Ngài mới là hạnh phúc thật. Và chỉ ở trong Ngài, con người mới có hạnh phúc và được hạnh phúc. Điều này thánh Augustine sau suốt thời gian ăn chơi trác tang, khi đón nhận ánh sáng Tin Mừng đã thổn thức ghi lại: “Chúa dựng nên tôi có một quả tim, và tim tôi không ngừng thao thức cho đến khi nó được nghỉ yên trong Ngài”.
Tóm lại, bỏ mình hay sống tinh thần nghèo cũng là một. Và sống nghèo tinh thần hay sống trong sạch, tiết độ, sống phó thác và khiêm nhường, sống với trái tim xây dựng hòa bình, với tinh thần chấp nhận vì lẽ công chính cũng là một. Và cái nghịch lý của Tin Mừng nằm ở chỗ đó. Nhưng liệu mấy ai nhận ra, và liệu có mấy ai khi nhận ra lại dám can đảm và sẵn sàng sống theo nghịch lý Tin Mừng này.

Nguồn: Gia Đình Nazareth (www.giadinhnazareth.org)

source
Vien Dong Daily