Nhà
báo Hồ Sĩ Viêm vừa qua đời tại Quận Cam, Nam California, ngày
28-11-2011, hưởng thọ 83 tuổi. Trước khi mất, ông đã giao lại cho nhật
báo Viễn Đông một khối lượng bài viết gồm hàng trăm bài, để đăng dần
trên trang Thế Giới Quanh Ta mỗi Thứ Ba hàng tuần và để chọn lọc in
thành sách. Quyển sách có cùng tựa đề Thế Giới Quanh Ta đã được Công ty
nhật báo Viễn Đông ấn hành vào tháng 3-2011.
Sự
kiện tìm ra những cuộn Thánh Kinh xưa trên 4.000 năm, đúng là một sự
ngẫu nhiên, vô tình. Hôm đó vào năm 1947, một cậu bé 15 tuổi người
Bedouin, tên là Muhammad adh-Dhib, thuộc một sắc dân du mục thường sinh
sống trên sa mạc, đang chăn một bầy dê trên một sườn núi cạnh vùng
Biển Chết. Mê say ngắm trời biển, cậu lãng quên không để ý gì đến bầy
thú trong một khoảng khắc. Rồi... choàng tỉnh, như qua một giấc mơ, cậu
đếm lại bầy dê, thì thấy thiếu một con. Ngoảnh đi, ngoảnh lại, tìm
quanh quẩn không thấy đâu, cậu đã thấy lo lo, nhưng nỗi vui chợt đến,
khi cậu nhìn thấy bên kia vách núi, cửa một chiếc hang đen ngòm, có lẽ
là khá sâu. Cậu bắc tay lên miệng làm loa, hô lên mấy tiếng gọi dê,
nhưng chỉ có tiếng của cậu vang vọng lại, còn dê vẫn im lìm. Thấy vậy
cậu bé đành chịu khó leo lên đến tận nơi để tìm kiếm. Mới đầu vì choáng
nắng, cậu thấy hang tối om và sâu hun hút, nên không dám bước vào. Cậu
nhặt một hòn đá vừa tầm tay, thẳng cánh ném mạnh vào để đuổi dê. Quả
thật có con dê nằm tránh nắng bên trong chạy ra, nhưng từ trong sâu
cũng có một tiếng “choang” lớn vọng theo. Cậu bé ngạc nhiên lắm, vì
biết rằng hòn đá của cậu đã được ném trúng vào một cái bình, hay cái vại
bằng đất nung nào đó, nên nó mới có tiếng vỡ như thế. Tuy vậy, vì có
một mình, nên cậu cũng không dám vào, mà đành đuổi đàn dê về nhà, để hôm
sau rủ thêm một người bạn, để cùng đi thám thính cho thỏa tính tò mò.
Qumran ở Bờ Tây, nơi tìm thấy những cuộn Thánh Kinh cổ xưa - ảnh: Effi Schweizer, 2007.
Hôm
sau hai cậu bé rủ nhau đi mang kèm theo vài bó đuốc để lỡ cần đến.
Chiếc hang này cửa ra vào nhỏ, nhưng phía trong rộng lắm và hòn đá cậu
bé vô tình ném vào đã trúng vào một chiếc bình bằng sành làm nó vỡ
toang, lộ ra bên trong những cuộn giấy cổ xưa cuốn ngoài bằng vải gai.
Chính ra, nếu không có hòn đá từ trên cao bay vòng xuống rớt trúng, thì
dù có người vào thám thính, cũng rất khó tìm thấy những chiếc bình sành
này, vì nó nằm kín sâu sau một tảng đá lớn nữa. Hai cậu bé liền nhặt
vài cuộn đem ra ngoài sáng để nhìn cho rõ, thì thấy đây là loại giấy cổ
xưa như làm bằng da và trên đó viết bằng một thứ chữ kỳ lạ. Tuy không
hiểu là gì, nhưng hai cậu bé cũng cảm thấy có sự gì kỳ bí và đoán ra
những cuộn giấy quá cũ kỹ này chắc cũng có một giá trị nào đó. Do vậy
vài hôm sau họ xách vài cuốn đến chợ Bethlelem để hỏi một vị tu sĩ Hồi
Giáo. Hai cậu bé này không thể ngờ rằng các em đã là người đầu tiên tìm
ra tài liệu viết tay cổ xưa nhất của nhân loại và là một sự khám phá
quan trọng nhất trong thế kỷ.
Chẳng bao lâu, nguồn tin này lan rộng
ra toàn thế giới và từ đó người ta đặt tên cho những cuộn tài liệu
viết tay cổ xưa nhất này là “Dead Sea Scroll”, lý do chúng đã được tìm
thấy ở hang động, cách Biển Chết có l dặm. Sau đó người ta còn tìm thêm
được tại các thành cổ đổ nát Qumran và trong 11 hang động của những
ngọn núi gần đó cũng những tài liệu viết tay cổ xưa có tới trên 4.000
năm. Tuy nhiên, nhiều tài liệu vì qua thời gian quá dài đã mủn nát
thành những mảnh nhỏ ghép lại rất khó. Tra cứu tìm tòi các nhà bác học
đã thấy những cuốn tài liệu này phần lớn viết bằng tiếng Hebrew, chữ
chính của người Do Thái, ngoài ra một số viết bằng tiếng Hy Lạp rồi
tiếng Aramaic, có lẫn thổ ngữ Nabataean.
Sau thời gian dài nghiên cứu
cặn kẽ, các nhà bác học xác định rằng thời kỳ viết những cuộn tài liệu
này khởi đầu từ thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên và chấm dứt khoảng
năm 70 đến 80 sau CN, năm đương thời với Chúa Jesus Christ, tức thời kỳ
người Do Thái bị đuổi ra khỏi thành Jerusalem và khỏi mảnh đất quê
hương của họ để tản mát lang thang trên khắp địa cầu trên thời gian dài
gần 2.000 năm. Cuộn tài liệu viết tay cổ xưa có chép lại những mẩu
chuyện đã xẩy ra từ 2.000 năm trước nữa và cũng chép lại hầu như toàn
thể cuốn Cựu Ước Kinh, những câu sấm truyền của nhà Tiên tri Isalah,
cũng như ghi lại những Giáo Điều trong Do Thái Giáo.
Hiện nay những
cuộn “Dead Sea Scroll” này đang được cất giữ tại một thư viện của người
Do Thái tại Jerusalem và được gọi là Những Cuộn Thánh Kinh nơi vùng
Biển Chết. Tại sao những cuộn Thánh Kinh này lại phải cất giấu ở những
nơi thật hiểm hóc, khó tìm? Dựa theo những đồng tiền của Đế Quốc La Mã
phát hành ngày đó được tìm thấy, các nhà khảo cổ đã suy luận rằng
người Do Thái cổ hồi đó, bị sống dưới sự đô hộ của người La Mã, nhưng ý
chí quật cường của họ không suy giảm. Họ âm thầm tổ chức cuộc chống
đối, nhưng lo xa hơn, họ đã chở đi giấu trước những cuộn Thánh Kinh,
hầu mong để lại cho hậu thế, khỏi bị quân thù đốt cháy.
Vài dòng lịch sử của người Do TháiTheo
Thánh Kinh, người Do Thái đầu tiên được đề cập tới là ông Abraham. Ông
này mãi tới khi ngoài 100 tuổi mới sinh được một người con tên là
Isaac và khi Isaac lớn lên lấy được một người con gái mà ông yêu quí có
tên là Rebek'ah. Hai vợ chồng này sinh được hai người con trai, nhưng
tính xung khắc nhau nên Isaac phải gửi một người con tên là Jacob sang ở
với một người thân tại một miền thật xa có tên là Ha'ran. Hồi đó Đạo
giáo chưa cấm đàn ông lấy 2 vợ, nên Jacob lấy cả 2 chị em và sinh được
12 người con.
Trong số các người con này có một người tên là Joseph,
tính nết hiền lành được Jacob yêu mến, nhưng cũng vì thế mà các người
con khác ganh tÿ. Đồng thời Joseph còn thật thà thuật lại một giấc mơ,
trong đó anh thấy mấy anh em phục lạy dưới chân mình. Từ chuyện đó họ
càng thêm thù ghét Joseph. Cho đến một hôm Joseph được cử đi chăn cừu
tại một chân núi thật xa nhà. Được dịp mấy người anh em khác kéo nhau
tới, gây gổ, định giết Joseph. Bỗng một toán thương nhân chở hàng đi
qua, các anh em này vội đổi ý kiến bán luôn Joseph làm nô lệ để lấy một
số tiền. Họ trở lại nhà đem theo cái áo choàng của Joseph có tẩm máu
cừu để cho Jacob tin tưởng là đứa con yêu dấu của mình bị thú rừng giết
chết.
Lúc đó Joseph mới có 17 tuổi, được đoàn thương buôn đem tới Ai
Cập và tại đây họ bán cho một người có tên là Potiphar, là một vị quan
cận thần của Vua Pharaoh. Biết thân phận mình, nên Joseph làm việc
rất cần mẫn để được lòng chủ. Quả, anh ta đã được yêu mến, nhưng lại
được yêu bởi bà chủ. Người đàn bà này thấy Joseph đẹp trai, khỏe mạnh,
nên gạ chung chạ với mình. Joseph không chịu, do vậy bà ta tức giận, vu
cáo với chồng là Joseph định hãm hiếp mình. Potiphar, nghe lời vợ tức
giận quá, nên nhốt Joseph vào ngục. Thấy Joseph dễ thương, chính người
cai ngục cũng yêu mến nên cất nhắc anh ta làm chủ của các tù nhân khác.
Trong lúc đó lao ngục lại thêm hai người tù nhân mới. Một người người
giữ trọng trách lo rượu cho vua, một người làm bánh. Cùng đêm đó hai
người nằm mơ, hai giấc mơ khác nhau. Họ đang bàn tán thì Joseph đi qua
chợt nghe thấy. Vốn được thần linh trợ giúp, nên Joseph đã hiểu ngay
hai giấc mộng, nên anh ta nói với người làm bánh rằng, chỉ 3 ngày nữa
ông này sẽ bị chặt đầu. Còn đối với người hầu rượu, Joseph cho hay
trong bốn ngày nữa, ông này sẽ được Vua nghĩ lại, tha tội cho và cho
giữ nhiệm vụ cũ. Nói xong anh ta còn dặn người hầu rượu, lúc đó hãy
nghĩ đến Joseph, để xin tha cho anh ta. Ba, bốn ngày sau, quả nhiên mọi
việc đều xẩy đúng như lời Joseph tiên đoán. Tuy nhiên khi trở lại
chức vụ cũ rồi, người hầu rượu quên hẳn Joseph. Mãi hai năm sau, chợt
một đêm nhà Vua nằm mơ thấy một giấc mơ kỳ lạ. Sáng dậy, ông cho vời
một nhà thông thái để vào đoán mộng, nhưng người này suy nghĩ mãi không
ra. Lúc bấy giờ người hầu rượu mới chợt nghĩ tới và tiến cử Joseph.
Trước
sân rồng, Joseph được nhà Vua kể rằng, Vua mơ thấy có 7 con bò thật
béo, thật đẹp. Rồi sau đó lại thấy 7 con bò khác ốm tong teo, trơ cả
xương. Nhưng rồi 7 con bò ốm đã ăn thịt cả 7 con bò béo. Joseph đã đoán
rằng 7 con bò béo đã biểu hiệu cho 7 năm được mùa rất lớn tại Ai Cập
còn 7 con bò ốm là biểu hiệu cho 7 năm tiếp đó thu hoạch mùa màng sẽ
rất kém. Đoán xong, Joseph còn đề nghị với nhà Vua hãy chọn lựa những
người giỏi để thu mua lúa vào những năm được mùa, hầu dự trữ cho 7 năm
sau. Nghe vậy nhà Vua rất hài lòng và cắt cử ngay Joseph làm vị quan phụ
trách vấn đề đó. Quả nhiên 7 năm đầu tiên, mùa màng của Ai Cập rất
tươi tốt, số thu hoạch rất lớn, nhưng qua năm thứ 8 vì thời tiết xấu,
nên mọi nơi đói kém, người dân không đủ ăn. Dĩ nhiên những điều tiên
đoán của Joseph đều đúng hết, nên ông ta trở thành một nhân vật quan
trọng kế cận với Vua. Lúc bấy giờ nhà Vua mới sai Joseph mở kho, phát
chẩn thực phẩm cho dân chúng.
Hôm đó, đứng nhìn đoàn người đến nhận
phát chẩn, Joseph nhận ra 10 người anh mình. Nhớ tới giấc mơ ngày xưa,
chính những người này đã phủ phục dưới chân, nên Joseph cho là Chúa đã
định trước, đã có ý đưa mình đến Ai Cập, nên anh bỏ hết hận thù, trở
lại yêu mến gia đình mình như xưa. Tuy nhiên, để hiểu tình cảnh gia
đình mình hơn nữa và để thử lòng mấy người anh em, ông sai lính giam họ
vào một phòng trong dinh với lý do nghi ngờ họ là những gián điệp.
Hiện nay, Joseph to lớn hơn xưa và nhất là vì quyền uy quá cao và quần
áo đẹp đẽ, nên không một ai nhận ra anh ta. Do đó, Joseph được biết cha
già còn sống và một người em ở lại nhà trông nom. Đã có ý định, nên
Joseph chỉ cấp phát cho ít lương thực, hẹn kỳ sau sẽ cấp phát nhiều,
nhưng phải để một người khác ở lại trong nom cha, còn người em út tên
là Benjamin phải lên theo. Quả nhiên, chỉ một thời gian ngắn, ăn hết
lương thực họ lại kéo lên. Lần này, Joseph mới mời tất cả vào phòng
mình và sau khi đuổi hết quân hầu ra, ông mới tỏ lộ chân tướng và mấy
anh em đã ôm lấy nhau, mừng mừng, tủi tủi, trong niềm hạnh phúc tràn
ngập. Ông đã tha thứ tất cả mọi điều lỗi xưa và vào tâu với vua mọi sự
việc của gia đình mình. Quá yêu mến Joseph, nên nhà Vua hưởng ứng ngay
sự xum họp của gia đình Joseph và cấp phát ngay ngựa, xe và binh lính
về tận quê để đón gia đình.
Gia đình của cụ Jacob hiện giờ đã quá
lớn, nào ông bà, gia đình con và cháu chắt, tổng cộng tất cả đến hơn 70
người. Họ kéo nhau bắt đầu định cư tại Ai cập. Họ đều được gọi là
Israelites, tức gia đình Israel, vì Chúa đã đổi tên ông Jacob thành
Israel, ta dịch là Do Thái. Dân tộc Israel có sự hiện diện tại Trung
Đông bắt đầu từ ngày đó và sẽ trải qua biết bao nhiêu sự thăng trầm,
hợp tan, tan hợp suốt dòng lịch sử trên 4.000 năm.